Tiểu sử Jules Harmand

Ông phát hiện ra Nam Kỳ và học tiếng Việt từ đầu năm 1866, với tư cách là bác sĩ phụ trợ của hải quân. Ông phải trở về Pháp vào năm 1870 khi chiến tranh Pháp-Phổ nổ ra. Từ năm 1873 đến 1877, ông đã tham gia vào một số chiến dịch dân sự và quân sự tại Bắc KỳNam Kỳ, cũng như trong các nhiệm vụ thăm dò khoa học ở bán đảo Đông Dương, sông Mê KôngXiêm. Vì vậy, mọi người tìm thấy ông đi cùng Louis Delaporte đến Angkor và vài tháng sau, với tư cách là một bác sĩ, trên sông Hồng, trên tàu thuyền chiến của L'Espingole điều khiển bởi thiếu úy Adrien-Paul Balny d'Avricourt.

Ông trở về Pháp vào năm 1878, nơi ông chịu trách nhiệm, trong số những việc khác, cho việc tổ chức khu vực Đông Dương của Hội chợ Thế giới, 1878. Năm 1881, ông bắt đầu sự nghiệp ngoại giao với tư cách là lãnh sự Pháp tại Băng Cốc. Vào tháng 8 năm 1883, ông là người ký kết cho Pháp về hòa ước Quý Mùi, qua đó triều Nguyễn đã chấp nhận sự bảo hộ của Pháp đối với Bắc KỳTrung Kỳ. Ông sẽ trở thành tổng ủy viên liên tiếp của chính phủ để bảo hộ Bắc Kỳ (1883), tổng lãnh sự ở Kolkata (1885), người quản lý của công sứ quán tại Santiago (1890), phụ trách nối lại các cuộc đàm phán biên giới với Xiêm (1894) và cuối cùng là bộ trưởng toàn quyềnTokyo (1894–1905) tại thời điểm các cuộc xung đột giữa Trung-Nhật và sau đó là giữa Nga-Nhật.

Ông là Tư lệnh của Quân đoàn Danh dự[2].

Ông cũng là chủ tịch của Hiệp hội Địa lý từ năm 1912.